A- A A+ | Tăng tương phản Giảm tương phản

Hội cúng rừng cấm bang người Nùng

Hàng năm cứ mỗi độ xuân về cùng với hội Tết nhảy của đồng bào Dao, hội gầu tào - Sải sán của đồng...

Hội cúng rừng được tổ chức thành hai hội ở hai khu rừng cấm khác nhau, vào hai thời điểm khác nhau. Đó là hội cúng rừng cấm bang ở đầu bản vào ngày30 tháng giêng và hội cúng rừng cấm giữa đồng vào mồng 2 tháng 7 âm lịch..
Hội cúng rừng cấm bang đầu xuân ngày 30 tháng giêng được tổ chức ở khu rừng đầu bản (tiếng Nùng gọi là: đoongw chưx thu lungj). Hội cúng này là hội chính nên được tổ chức một cách chặt chẽ hơn.
Các đồ phục vụ cúng được dân bản họp bàn quyên góp từ trước đó hàng tuần một cách công khai dân chủ với tinh thần nhất trí cao độ, không gò ép bắt buộc. Trước đây, hội này do các già làng đứng ra tổ chức. Sau này hội được giao cho ban quản trị hợp tác xã cùng đội sản xuất lo liệu và hiện nay chuyển giao cho các phó thôn chủ trì, các thầy cúng, thầy mo chỉ làm thủ tục lễ nghi.
Ban tổ chức đứng ra trực tiếp tập hợp bà con phân công các công việc một cách cụ thể. Đặc biệt trong bộ phận hầu cần chọn cử ra một bà già vừa đức độ vừa có kinh nghiệm làm hũ rượu cẩm sẵn.
Từ sáng sớm ngày 30 tháng giêng, theo các nhiệm vụ được giao, bộ phận nào tự giác lo công việc ấy, song bộ phận phát dọn cây cỏ hoang dại phải đi làm sớm để thầy mo, thầy cúng kịp tiến hành nghi lễ. C ác thầy mo, thầy cúng phải dậy sớm đánh răng bằng nước muối, rửa mặt nước trầm hương và điểm tâm ngụm rượu, mặc áo dài mới, chân đi giày, đầu vấn khăn xếp chuẩn bị các nghi lễ cúng rừng và trong khi cúng không ai được ăn uống, vệ sinh bừa bãi làm ô uế môi trường.
Nơi thờ cúng được chọn ở gốc hai cây cổ thụ lớn nhất gọi là Cây bố và cây mẹ (tiếng Nùng gọi là cha pôq- cha mêq). Mâm cúng được làm bằng giá lót lá chuối gồm hai mâm: mâm trên và mâm dưới.
Cỗ mâm trên- tiếng Nùng gọi là 'choông Srãc' nghĩa là mâm đất nước. Mâm này gồm một con gà sống gáy, lông đỏ đẹp; một con lợn đực đen tuyền, bảy chén rượu xếp hàng ngang - chén giữa đội đáy một chén khác, tiếng Nùng gọi là 'ta changj':; một bát nước, một nhúm muối, bảy ngựa đen bằng giấy treo kẹp; một cái ô bằng giấy đen che từ lư hương (lư hương được đệm bằng cỏ; bảy nén nhang; bảy bát cơm và bảy sâu thịt tổng hợp. Đặc biệt có một bát thịt tinh chất bằng thịt nạc, gan, tim, tiết. Bát này gọi là pătj chiêngw, nghĩa là bát bảo hộ đất nước.
Cỗ mâm dưới gọi là mâm bảo vệ bản làng. Mâm này gồm một con gà sống gáy, một miếng thịt lợn, năm sâu thịt lợn tổng hợp; năm chén rượu và năm bát cơm. Chén giữa cũng đội đáy chén khác như mâm trên; năm ngựa giấy treo kẹp. Ngoài ra khác với mâm cỗ ở trên, mâm dưới có một bát thức ăn chay.
Còn thầy cúng, thầy mo thì có hai người. Nhưng thực chất hai thầy này không cúng và không có bài cúng nào, chỉ thay mặt nhân dân thôn bản úp mặt vào cây quỳ lạy bốn phương trời tám phương đất hai hồi, mỗi hồi ba lần với ý nghĩa đón nguồn nước mẹ phù hộ độ trì cho bà con dân bản an cư lập nghiệp, mọi sự bình yên. Khi các thầy cúng này qua đời thì các ông phụ việc tiếp tân nghi lễ lên thay.
Rượu rót mâm cúng dùng rượu nếp cẩm. Sau khi nghi lễ hồi thứ nhất quỳ lạy bốn phương trời mười phương đất thì mổ lợn gà làm các thức ăn theo thủ tục để bày thờ. Khi hết hai hồi thờ cúng thì các thầy cúng và hai người tiếp tân cùng nhau ăn uống điểm tâm, xem bói xương gà. Trong khi thờ cúng, quỳ lạy, khấn vái những người khác có thể xem nhưng không được nói tiếng dân tộc khác để pha tạp tiếng mẹ đẻ. Sau khi làm hết các thủ tục cúng, xem bói xương gà, trưởng ban tổ chức mới dùng loa đi mời toàn thể đại diện các gia đình dự hội.
Hội được quy tụ tại chân rừng cấm và sinh hoạt tại chỗ. Người đại diện gia đình phải là con trai, bất kỳ già trẻ đều được. Đến dự hội ai cũng phải ăn mặc chỉnh tề không được để đầu trần, chân đất và tự đem bát đĩa cơm rượu đóng góp theo nhu cầu và điều kiện của mình. Các gia đình ở nơi khác, ngoài thôn bản và đồng bào các dân tộc khác trong khu vực cũng được phép dự hội, miễn là tuân thủ các tục lệ cũng như các quy định chung của ban tổ chức đề ra. Hội tổ chức ăn uống tập trung như một hội thề, không phân biệt già trẻ, giàu nghèo vì tất cả thức ăn đều nấu chung một chảo như chảo thắng cố, và chia đều cho nhau. Gia đình nào không có người đến dự thì cũng được chia phần như nhau. Các thầy cúng cũng cùng ăn uống với hội trong không khí chan hoà tình cảm gia đình. Trong tiệc hội mọi người vừa ăn vừa uống chuyện trò với nhau về kinh nghiệm lao động sản xuất, kế hoạch làm ăn năm mới của gia đình; người nhờ kẻ hứa giúp đỡ lẫn nhau về vốn liếng làm ăn, về đổi công giúp việcsao cho gia đình nào nhà nấy ai cũng đủ cơm ăn áo mặc. Giữa tiệc hội, thầy cúng cầm đôi xương gà, trịnh trọng, giõng dạc thông báo những điều hay điều gở qua bộ xương gà, đầu gà, chân gà cho dân bản hay để cùng nhau đề phòng, tránh những điều tai bay vạ gió...
Các thầy kêu gọi mọi người hãy chín bỏ làm mười, đoàn kết bên nhau. Cầu thần rừng phù hộ độ trì che trở cho dân làng được bình an, mùa màng tươi tốt dòng thời yêu cầu mọi người thực hiện tốt các quy định được bàn bạc nhất trí trong lễ hội. Cuối buổi lễ hội, thầy cúng tuyên bó cấm bang ăn tết ba ngày không ai được vi phạm tục lệ. Nếu ai mang vác cuốc cày, bừa, dao hay chị em phụ nữ có mang đội nón qua làng trong những ngày tết sẽ bị phạt ăn vạ.
Sau khi các thầy cúng kết hội ra về, bà con dân bản còn vui chơi các trò chơi truyền thống như:'Leng hao' tức là hai tốt' gần giống như 'oản tù tì', có đám thì hát 'Sán côx' tức sơn ca nhưng chủ yếu là hát dân ca, đánh quay, đánh yến, chơi cờ gỗ...
Sau ba ngày chơi tết, ăn uống vui xuân thoả thích, bà con lại bắt tay tiếp tục một năm làm ăn mới.
Sở dĩ có tục này, truyền thuyết người Nùng kể lại rằng: Con người vốn có tổ tiên sinh ra nhiều thế hệ con cháu nối tiếp nhau khai thiên lập địa đoàn kết bên nhau lập làng, dựng bản. Nhờ rừng núi mênh mông, thời tiết thuận hoà, đất đai màu mỡ, cây cỏ hoa lá xanh tươi, con người mới xây dựng cho mình một cuộc sống ấm no hạnh phúc. Cũng như con người, đất trời rừng núi là tổ tiên, linh hồn của biết bao vạn vật sinh linh cây cỏ hoa lá, gia súc gia cầm. Nó bảo vệ, che chở cho thế giới thiên nhiên luôn tồn tại và phát triển. Vì vậy, cùng với việc thờ cúng gia tiên trong các ngày lễ tết cổ truyền cũng phải cúng rừng, cầu rừng phù hộ che chở cho mùa màng, gia súc gia mầm luôn được phát triển tốt tươi không bị mưa gió dập vùi, sâu bọ phá hoại, bệnh dịch giết hại gia súc; cầu rừng núi tổ tiên phù hộ cho người Nùng tránh khỏi mọi tai bay vạ gió, loạn lạc lâm nguy. Rừng đó trở thành núi rừng nước non của bản làng và được thờ cúng như tổ tiên dân tộc.
Còn hội cúng rừng phụ được tổ chức ở khu rừng cấm giữa đồng hoặc ngay trước bản vào ngày mồng 2 tháng 7 âm lịch- đầu mùa lúa chín. Rừng cấm này chỉ bảo hộ vụ lúa ở ruộng đồng.
Mâm cúng ở rừng nào cũng hoàn toàn giống mâm lễ ở khu rừng cấm đầu bản nhưng có một điều khác biệt là mâm cúng ở rừng cấm này có cúng thêm một con vịt vì bà con thường chăn vịt ở gốc cây lúa.
Qúa trình tổ chức hội này cũng giống như hội chính. Song trong quá trình tổ chức nếu nhà nào có ruộng lúa bị sâu hại hoặc lúa bị vàng khô thì gọi là bị phạm thần lửa, tiếng Nùng gọi là 'Sriuw phay' thì cũng phải cúng tại chỗ. Nội dung bài cúng:

Mời thần rừng xuống trình tấu
Xin thần rừng giúp cứu nhân độ thế
Mổ lợn gà nạp lễ

Đó chỉ là một trong ba bài cúng mà thầy cúng phải cúng. Tuy nhiên trong mâm cúng không có xâu thịt mà chỉ có bát thịt tinh chất và xôi vàng; dùng rượu trắng chứ không dùng rượu nếp cẩm với ý nghĩa chúc mừng và cầu mong lúa chín rộ.
Trong lúc ăn hội cũng chỉ có con trai đi dự, bất kỳ già hay trẻ. Những người có vợ chửa thì không được đi dự mà chia phần về nhà vì nếu đi thì ruộng lúa sẽ mắc bệnh đốm lá, tiếng Nùng gọi là 'toocx chacj'. Những người đi dự không đội mũ thì ruộng sẽ có sâu ăn lúa và ai đem ớt đi thì ruộng lúa sẽ chết khô. Vì vậy, trong khi đi ăn cỗ mọi người phải tuân thủ theo quy định chung của lệ làng không nói tiéng dân tộc khác, không được đi chân đất, không được ăn mặc quần áo rách tả tơi, không đem cơm cháy, rượu khê. Nước chấm- món ăn cộng đồng chỉ có muối, mỳ chính. Lúc ăn có thể nói tục chứ không được chửi bậy.
Hội cúng rừng cấm giữa đòng vào ngày 2 tháng 7 (âm lịch) không cấm bang vì tổ chức trùng với tết chiến thắng cổ truyền dân tộc- tết tháng 7; ăn xong mọi người ra về vui chơi chung với tết. Các nam nữ thanh niên lại rôm rả đánh én, chơi cờ, làm leng hao và mời nhau đến ăn xôi bảy màu để mừng và cầu mong cho vụ lúa bội thu.
Thực chất của hội cúng rừng này từ chính đến phụ là hội cầu bản, cầu mùa. Ngoài ra hội cúng rừng còn góp phần bảo vệ môi trường sinh thái, giữ gìn bảo vệ thiên nhiên của làng bản. Và một yếu tố quan trọng là qua các lệ làng được quy định trong hội cúng rừng đã góp phần gìn giữ những giá trị thuần phong mỹ tục- một trong những bản sắc của văn hoá làng Việt Nam.


Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
Tin liên quan

Nội dung đang cập nhật...

Bản đồ
CHƯƠNG TRÌNH TRUYỀN HÌNH
Website liên kết
Bình chọn
Thông tin nào trên Cổng TTĐT tỉnh mà bạn quan tâm nhất?
Thời tiết
Thời tiết Hà Nội
Thống kê truy cập
Hôm nay : 18
Hôm qua : 24